Trang

Thứ Ba, 26 tháng 8, 2014

PHÚ QUÝ TRƯỜNG TRUNG



Nhà tôi có một vài thứ vật dụng tương đối cổ đó là cái bát con, cái chén uống nước và cái đĩa. Cái chén bị vỡ nên phải thuê thợ bịt bạc (nghề thợ bạc rất phổ biến ở nước ta hồi trước). Từ những thế kỷ xa xưa mà nước men gốm đã tinh xảo, trong và bóng. Cấu trúc mỏng mảnh mà thanh thoát, hoa văn đơn giản mà đẹp. Dưới trôn còn ghi 2 chữ Hán: Nội phủ (chỉ dùng trong cung vua, phủ chúa). Đặc biệt có 2 câu thơ mà giới chơi đồ cổ cho là khá thịnh hành trên các đồ gốm sứ thời xưa:
         Sự phùng đắc ý nghi hưu tức
         Phú quý trường trung dị bạch đầu
Dịch nghĩa: (Gặp sự đắc ý thì nên dừng  - Còn phú quý dễ làm ta bạc đầu)
         Gặp sự vừa lòng đừng đắc ý
         Phú quý khiến ta đến bạc đầu
Một kiểu triết lý sống của các nhà nho, các bậc trí giả cao minh hiểu đời, biết mình, biết tiến, biết thoái. Một cách để tự răn mình, tự tu thân không để cho bả công danh cám dỗ, dẫn dắt.
Lần lại những trang sử cũ của nước nhà không thiếu gì những bậc kỳ tài, kinh bang tế thế, văn võ toàn tài. Ấy thế nhưng xin khước từ mọi bổng lộc, phú quý của triều đình để được về nơi non thanh thủy tú ẩn dật đọc sách, làm thuốc, dạy học vui thú cảnh điền viên.
Chu Văn An dâng sớ lên vua Trần Dụ Tông đề nghị chém 7 tên gian thần nhưng không thèm tranh quyền, đoạt vị. Trước sau chỉ một mực xin treo ấn từ quan về mở trường học, đào tạo nên biết bao danh sĩ, trở thành người thầy của muôn đời, được rước vào thờ trong Quốc Tử Giám như một Tổ sư của nghề dạy học.
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác học rộng, biết nhiều, tinh thông y lý, được vời vào phủ Chúa chữa bệnh cho Thái tử Trịnh Cán. Nhà Chúa cố giữ ông lại với nhiều ân huệ, biệt đãi nhưng ông cương quyết viện cớ tuổi già, ốm yếu để được trở về quê ngâm thơ, làm thuốc, chữa bệnh cho dân nghèo.
Thời nhà Mạc có Nguyễn Bỉnh Khiêm thi đỗ Trạng nguyên, làm quan to trong triều nhưng được mấy năm thì xin về trí sĩ, vui cùng vườn rau ao cá, làm thơ, viết sách. Ông trường thọ đến 95 tuổi. Trong quyển “Bạch Vân thi tập” của ông có bài thơ Nhàn: 
        Một mai, một cuốc, một cần câu
                   Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
                   Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
                    Người khôn, người đến chốn lao xao
                    Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
                    Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
                    Rượu đến gốc cây ta sẽ uống
                    Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao
      Thời hiện đại, những Nguyễn Đức Kiên, Dương Chí Dũng cứ tưởng rằng còn phú quý đến nhiều đời sau mà vướng vào lao lý. Giá như họ đọc và ngẫm kỹ hai câu thơ kia: “Gặp sự vừa lòng đừng đắc ý \ Phú quý khiến ta đến bạc đầu” thì biết đâu đã không gặp phải cái kết cục cay đắng như ngày hôm nay.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét